Một cộng đồng ngót chục triệu tín hữu, có chung đức tin, có lịch sử hơn 400 năm, hiển nhiên phải có một nền văn hóa giàu có, phong phú và đa dạng. Vậy nhưng, ở Việt Nam, đa số công chúng ngoại đạo dường như chỉ biết đến văn hóa Công giáo thông qua kiến trúc nhà thờ và ngày Thiên Chúa giáng sinh (Noel). Nhà thờ là vật thể có thể nhìn thấy, có thể cho chúng ta cơ hội chiêm ngưỡng vẻ đẹp của các phong cách kiến trúc khác nhau trên thế giới mà không phải đi đâu xa. Noel từ nhiều năm nay đã là ngày hội chung của cả nước, không phân biệt tôn giáo/tín ngưỡng. Với các bạn trẻ ngoại đạo, Noel là cơ hội “xuống đường ăn chơi nhảy múa”, khoe quần áo đẹp. Họ chả có đức tin gì, vui là chính. Điều ấy chả sao. Còn trẻ là phải vậy. Mai này có gia đình, sấp mặt với cơm áo gạo tiền, tính sau.
Nhưng văn hóa Công giáo Việt không chỉ có vậy. Đó còn là một nền tảng giáo lý có tính định hướng với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa (ba ngôi). Đó còn là một hệ thống giáo luật chặt chẽ với những điều khoản rất cụ thể, khắt khe nhưng không hà khắc. Đó còn là một cấu trúc xã hội hoàn bị, bao gồm nhiều mắt xích khác nhau, cả quan phương và phi quan phương. Tổ chức quan phương Công giáo gồm 3 cấp: giáo hội hoàn vũ (Tòa Thánh), giáo hội địa phương (Tòa Giám mục) và giáo xứ. Trong hệ thống này, còn có các mắt xích trung gian liên kết như giáo miền, giáo tỉnh, hạt đạo (giáo hạt) và hội đồng giám mục. Cấu trúc phi quan phương dễ nhận thấy nhất là các dòng tu, tu hội/tu đoàn.
Sâu xa hơn, rất ít người ngoại đạo hiểu được, đó là các nguyên lý chính tạo nên cấu trúc sinh hoạt thường ngày của các tín hữu Công giáo Việt: hiệp thông và phụng vụ. Hiệp thông được hiểu là sự tham dự, chia sẻ, trao ban và lãnh nhận. Phụng vụ, thoạt kỳ thủy chỉ được hiểu là “nghi thức phụng thờ Thiên Chúa”. Nhưng sau này, Tân ước chỉ rõ, ngoài mối liên hệ với Thiên Chúa, phụng vụ còn bao hàm một nghĩa khác, đó là “sự phục vụ trong anh em”. Nói một cách rõ ràng hơn, phụng vụ còn là “sự tham dự, chia sẻ, trao ban và lãnh nhận” giữa các tín hữu với nhau (giữa người với người). Đây chính là những điểm mấu chốt, quy định phương thức ứng xử hàng ngày của mỗi giáo dân.
Theo giáo lý Công giáo, Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Và Người mời gọi mỗi tín hữu phải luôn ý thức về ba sự hiện diện chính: (i) sự hiện diện của mỗi tín hữu đối với Thiên Chúa, (ii) sự hiện diện của mỗi tín hữu đối với các tín hữu khác; và (iii) sự hiện diện của mỗi tín hữu đối với thế giới thụ tạo. Như vậy, chúng ta có thể hình dung rằng, trong cuộc sống của mình, mỗi tín hữu Công giáo đều có 3 điểm tựa chính: Thiên Chúa, đạo hữu, và “thế giới thụ tạo”. “Thế giới thụ tạo” được nhắc đến ở đây chính là môi trường thiên nhiên quanh ta, cho chúng ta những điều kiện sống cần thiết tối thiểu. Để đảm bảo cuộc sống luôn bình hòa, ổn định và phát triển, hàng ngày mỗi tín hữu thường xuyên phải hiệp thông với Thiên Chúa, hiệp thông với nhau, và hiệp thông cả với “thế giới thụ tạo”.
Một thành tựu quan trọng không thể không kể đến của văn hóa Công giáo Việt, chính là sự sáng tạo, phát triển và truyền bá chữ Quốc ngữ. Đây là sự kiện có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển dân trí và văn hóa Việt. Thậm chí, chữ Quốc ngữ còn góp phần rất lớn vào quá trình thống nhất đất nước, nâng tầm quốc gia lên một vị thế mới.
Mặc dù phong phú, đa dạng và có ảnh hưởng lớn như vậy, văn hóa Công giáo Việt vẫn mang một thân phận côi cút. Công giáo vẫn được coi là “vấn đề nhạy cảm”. Tầng sâu văn hóa còn ẩn tàng trong cuộc sống hàng ngày của giáo dân vẫn chưa được tìm hiểu/giới thiệu một cách hệ thống. Tiếng nói của người trong cuộc chưa được lắng nghe đầy đủ. Ngay cả với chữ Quốc ngữ, một thành tựu văn hóa mà mỗi người chúng ta đều sử dụng hàng ngày, nhà nước vẫn chưa có một định hướng hay chương trình nghiên cứu xứng tầm. Ít người biết được rằng, trong các hội Khoa học Lịch sử, hội Ngôn ngữ học, Viện Sử học và Viện Ngôn ngữ học đều không có bất cứ chuyên gia nào nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển chữ Quốc ngữ. Cuốn lịch sử chữ Quốc ngữ đầu tiên được đông đảo độc giả biết đến là do một vị linh mục viết. Cũng ít người biết được rằng, tác giả của tập lịch sử Việt Nam đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ là Bento Thiện, một giáo dân người Việt. Và ông viết nó từ năm 1659, sớm hơn rất nhiều so với các bộ sách lịch sử viết bằng chữ Quốc ngữ được biết đến hiện nay.
Mai Thanh Sơn
Có thể bạn quan tâm
Cái nhìn tổng quát về các Hồng y cử tri tham dự Mật..
Th5
Ngày 02/05: Thánh Athanasiô, Giám mục Tiến sĩ Hội Thánh (295-373)
Th5
Tất Cả Hồng Y Cử Tri Trong Mật Nghị Đều Có Quyền Bỏ..
Th5
Tin Tổng Hợp Giáo Phận Hà Tĩnh Tháng 04/2025
Th4
Tang lễ ĐTC Phanxicô: Một làn sóng tình cảm thực sự, không chỉ..
Th4
Ngày 01/05: Thánh Giuse Thợ
Th4
ĐHY Reina: Các Hồng y phải chọn một Giáo hoàng có thể hướng..
Th4
Nguồn Gốc Tháng Hoa Kính Đức Mẹ
Th4
Đức Hồng Y của Philippines: Không chính trị hóa Mật nghị bầu Giáo..
Th4
Tông Hiến Universi Dominici Gregis Về Việc Tông Tòa Trống Ngôi Và Cuộc..
Th4
Giáo Xứ Trung Nghĩa Trong Ngày Cao Điểm Tuần Chầu – Kỷ Niệm..
Th4
Nhịp SốngGHVN Số 18 (21/4 – 28/4/2025): Giáo Hội Việt Nam Cầu Nguyện..
Th4
Phiên họp thứ 5: Các Hồng y suy tư về Giáo hội và..
Th4
Mật Nghị Bầu Giáo Hoàng Sẽ Bắt Đầu Vào Ngày 07/5/2025
Th4
Ngày 29/04: Thánh Catarina thành Siêna – Trinh nữ, Tiến sĩ Hội Thánh..
Th4
Điều gì xảy ra sau khi Đức Giáo hoàng qua đời?
Th4
Thánh lễ cầu nguyện cho Đức Cố Giáo Hoàng Phanxicô tại các giáo..
Th4
Giáo Hạt Nguồn Son Hành Hương Năm Thánh Tại Nhà Thờ Chính Toà..
Th4
Thông báo về Tuần Cửu nhật tưởng nhớ Đức Giáo hoàng Phanxicô
Th4
Thánh Lễ Cầu Nguyện Cho Đức Cố Giáo Hoàng Phanxicô Tại Nhà Thờ..
Th4